TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Triết học Phật giáo là một trong những học thuyết triết học - tôn giáo
lớn, tồn tại lâu đời trên thế giới . Với hệ thống giáo lý rất đồ sộ và số lượng
phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp, triết học Phật giáo nhanh chóng trở
thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của rất nhiều
quốc gia trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Ngày nay dù đã trải
qua các cuộc cách mạng xã hội và các cuộc cách mạng trong hệ ý thức với chủ
nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng
giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận
lớn dân cư Việt Nam. Tại sao tác động của đạo Phật đối với thế giới quan, nhân
sinh quan của con người nói chung và của người Việt nói riêng lại lớn đến như
vậy? Có lẽ việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá tư duy biện chứng trong triết học
Phật giáo sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về điều này. Đồng thời qua đó ta cũng vận dụng
vào trong nền kinh tế thi trường ở Việt Nam để tìm ra một phương cách hợp lý để
hướng đạo theo điều thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn
góp phần xây dựng đất nước giau mạnh hơn chứ không trở nên mê tín dị đoan, cúng
bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân
và nhiều điều khác tốt đẹp nữa. Với mong muốn đó chúng em đã chọn đề tài : “Tư
duy biện chứng trong triết học Phật giáo. Vận dụng tư tưởng trong nền kinh tế
thi trường ở Việt Nam” để tìm hiểu và nghiên cứu.
Chương 1 : Tư duy biện chứng trong triết học Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố
tôn giáo và triết học quyện vào nhau, làm cơ sở luận chứng cho nhau. Tư tưởng
triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển rất lớn, được
tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định
cho cả năm bộ phái Phật giáo như: “ Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng
kỷ luật của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này còn
thêm các Bộ luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm
nhiều tập dưới dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của
Phật giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về
giáo pháp của Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể
luận và nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất
phác.
1. Bản
chất của tư duy biện chứng trong triết học Phật giáo
Tư
duy biện chứng trong phật giáo là tư duy về sự vận động biến đổi của vạn vật
trong thế giới. Nó thể hiện rõ ràng nhất, nổi bật nhất là phạm trù tư duy về về
thế giới và con người trong đó luận giải về các vấn đề sinh ra, tồn tại và biến
mất: con người nằm trong vòng sinh lão bệnh tử, quan niệm về con người trong
vòng luôn hồi số kiếp và giải thoát; thế giới vô thường - vô tại, hiện tại này
là nguyên nhân dẫn đến những cái khác trong xã hội…
Tư duy biện chứng thể hiện rõ nhất và trung tâm nhất là ở thuyết vô ngã - vô thường và luật nhân quả :
Tư duy biện chứng thể hiện rõ nhất và trung tâm nhất là ở thuyết vô ngã - vô thường và luật nhân quả :
+ Luật nhân - quả: triết
học phật giáo đề cao tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, không do sự
chi phối quyết định của một lực lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Trái
lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Điều
này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh
như: hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ, yểu …
+Thuyết vô ngã - vô
thường: Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ
qua việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật
.
2. Thế
giới quan trong triết học Phật giáo
2.1 Thuyết
vô ngã- vô thường
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn không có
tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra
“có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng
là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng
(ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Theo cách phân loại khác - “lục
tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả (nhiệt năng), phong (hơi thở),
không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói một cách tổng quát thì vạn vật chỉ
là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc” và tinh thần “danh”. Như
vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét